Giới thiệu nội dung và phương pháp tính chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)
I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP THỐNG KÊ CÔNG NGHIỆP HÀNG THÁNG
Trong nhiều năm qua, để đánh giá tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp hàng tháng, Tổng cục Thống kê chủ yếu dựa vào chỉ tiêu “Giá trị sản xuẩt công nghiệp theo giá cố định” và đã đạt được kết quả nhất định trong việc cung cấp các thông tin nhanh giúp Đảng, Nhà nước, các nhà nghiên cứu hoạch định các chủ trương, chính sách phát triển ngành công nghiệp một cách kịp thời và hiệu quả.
Về lý thuyết, phương pháp này được tính theo công thức:
Giá trị sản xuất theo giá CĐ 1994
|
=
|
Khối lượng SP
SX trong kỳ
|
x
|
Đơn giá
CĐ 1994
|
Cơ sở của phương pháp đánh giá tăng trưởng công nghiệp bằng chỉ tiêu “Giá trị sản xuẩt công nghiệp theo giá cố định” phù hợp với nền kinh tế phát triển trên cơ chế quản lý là kế hoạch hoá tập trung bao cấp với số lượng cơ sở sản xuất ít, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước sản xuất theo kế hoạch, sản xuất cái gì, số lượng bao nhiêu rất cụ thể. Một đặc điểm nữa của nền sản xuất kế hoạch hóa tập trung là chủng loại mặt hàng không đa dạng, chậm thay đổi, giá cả tương đối ổn định trong một thời gian dài nên danh mục sản phẩm dễ thiết lập và sử dụng trong bảng giá cố định do đó phương pháp đánh giá tăng trưởng công nghiệp bằng chỉ tiêu “Giá trị sản xuẩt công nghiệp theo giá cố định” đã phát huy tối đa ưu thế và rất phù hợp với cơ chế này.
Ưu điểm khác của phương pháp này là đơn giản, rất dễ tính toán, tổng hợp, phù hợp trình độ làm số liệu của cán bộ thống kê, kế toán lúc bấy giờ. Ngoài ra, chỉ tiêu GTSX theo giá CĐ còn biểu thị ý niệm trực quan rõ ràng nên dễ so sánh, người dùng tin có thể hình dung được cả tốc độ phát triển SX công nghiệp (số tương đối) và qui mô nền SX công nghiệp (số tuyệt đối);
Tuy nhiên, thống kê công nghiệp hàng tháng hiện nay được hình thành từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung và tồn tại suốt nửa thế kỷ qua. Đến nay cả về hệ thống chỉ tiêu và phương pháp tính nêu trên đã bộc lộ những tồn tại và hạn chế đó là:
(1) Phương pháp tính các chỉ tiêu không còn thích hợp với nền kinh tế thị trường, nhất là phương pháp đánh giá tốc độ tăng trưởng bằng chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp. Giá trị sản xuất bị tính trùng lên theo cấp số cộng, trong khi giá trị tăng thêm không bị tính trùng, dẫn đến khoảng cách giữa tốc độ phát triển tính theo giá trị sản xuất với giá trị tăng thêm ngày càng lớn.
(2) Trong nền kinh tế thị trường, nhiều sản phẩm mới xuất hiện, không có trong bảng giá cố định nên không thể tính chính xác giá trị sản xuất theo giá cố định cho các sản phẩm mới này. Hơn nữa, trong điều kiện cạnh tranh, các doanh nghiệp cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, trong khi giá bán lại giảm hơn trước, dẫn đến việc áp dụng bảng giá cố định không chính xác.
(3) Qui trình tính giá trị sản xuất theo giá cố định phải từ cơ sở, nhưng các cơ sở khó có thể thực hiện tính theo giá cố định một cách chính xác.
(4) Theo nguyên tắc, bảng giá cố định phải được thay đổi, chậm nhất là 5 năm một lần, tuy nhiên cho đến nay, bảng giá cố định 1994 đã tồn tại trên 14 năm. Tuy nhiên, việc biên soạn bảng giá cố định mới trong điều kiện hiện nay với hàng chục nghìn sản phẩm/mặt hàng đa dạng, phong phú là hết sức phức tạp, khó khăn và tốn kém, không có tính khả thi.
(5) Hiện nay trên thế giới không còn quốc gia nào tính chỉ tiêu giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cố định.
(6) Phương pháp thống kê công nghiệp hàng tháng hiện hành không đảm bảo tính so sánh quốc tế.
Hiện nay, kinh tế nước ta đã và đang chuyển nhanh sang nền kinh tế thị trường, ngành công nghiệp Việt Nam đang phát triển nhanh, doanh nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm mới với số lượng lớn, mặt hàng rất đa dạng, phong phú không còn đơn điệu và ổn định theo kế hoạch. Các sản phẩm được sản xuất từ đầu những năm 90 thế kỷ trước và được tính đến khi xây dựng bảng giá cố định 1994 đến nay còn rất ít, hoặc đã thay đổi mẫu mã, kích cỡ, chất lượng có nghĩa là thay đổi cả nội dung và hình thức. Giá cả không còn ổn định lâu dài theo qui định của Nhà nước, tất cả đều theo qui định cung cầu của nền kinh tế thị trường quyết định. Bên cạnh đó, sản phẩm mới không có trong bảng giá cố định ngày càng nhiều. Vì vậy, việc tính toán phải có rất nhiều qui ước, không còn sản phẩm có giá cố định để sử dụng hoặc dùng giá của sản phẩm này áp cho một sản phẩm khác chỉ hơi giống qui cách, nội dung dẫn đến việc đánh giá tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp theo bảng giá cố định trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với điều kiện thực tế, nền tảng của phương pháp luận không còn phù hợp. Như vậy, về bản chất phương pháp tính đã thay đổi, không còn chính xác đòi hỏi chúng ta phải tìm ra một phương pháp tiếp cận mới phù hợp với tình hình, điều kiện hiện tại.
Phương pháp mới thay thế phương pháp cũ phải đáp ứng các yêu cầu chủ yếu sau:
- Phản ánh chính xác, sát với thực tế tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp.
- Đảm bảo tính so sánh quốc tế.
- Thông tin phản ánh phải chi tiết, đa dạng theo ngành kinh tế, chủng loại mặt hàng, sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế thị trường.
- Các chỉ tiêu phải phản ánh đầy đủ, đa dạng chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp, cụ thể gồm các chỉ tiêu: Chỉ số phát triển sản xuất, chỉ số tiêu thụ, chỉ số tồn kho,…
- Có tính khả thi cao và phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Một phương pháp được cân nhắc kỹ lưỡng, khắc phục nhược điểm của phương pháp cũ và phù hợp với điều kiện, tình hình mới là phương pháp chỉ số sản xuất công nghiệp ( Index-Industry Products ) gọi tắt là chỉ số IIP
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH IIP
Công thức chung của phương pháp IIP là:
- Iq: tốc độ phát triển sản xuất một ngành, một tỉnh, TP, một khu vực
- iq: tốc độ phát triển của sản phẩm hoặc ngành cấp dưới liền kề
- Wqo : quyền số được tính bằng giá trị tăng thêm kỳ gốc
Bản chất của phương pháp này là xác định tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất công nghiệp dựa vào khối lượng sản phẩm sản xuất. Toàn bộ doanh nghiệp lớn, vừa và một phần các doanh nghiệp nhỏ cùng các sản phẩm chủ yếu do tỉnh sản xuất đều được tham gia vào tính toán tốc độ tăng trưởng. Với phương pháp IIP, ta có thể đánh giá được tốc độ tăng trưởng của một sản phẩm, một ngành cụ thể hay toàn bộ ngành công nghiệp một cách chính xác, kịp thời. Đáp ứng nhu cầu điều hành nhanh, linh hoạt của các cấp quản lý.
1. Khái niệm và phương pháp tính quyền số
Quyền số của chỉ số là đại lượng được giữ cố định trong công thức chỉ số tổng hợp, nhằm gộp những những sản phẩm có nội dung, qui cách và đơn vị tính khác nhau. Ngoài ra căn cứ vào quyền số, ta có thể đánh giá tầm quan trọng của mỗi sản phẩm, mỗi ngành trong tổng thể. Việc lựa chọn chỉ tiêu nào làm quyền số phải căn cứ vào mới quan hệ giữa các nhân tố và và mục đích nghiên cứu, sử dụng.
Chỉ tiêu giá trị tăng thêm phản ánh giá trị hàng hóa, dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một thời kỳ nhất định. Vì không bao gồm chi phí trung gian nên nó phản ánh đúng mức kết quả hoạt động do cơ sở sản xuất ra. Do vậy việc lựa chọn chỉ tiêu GTTT làm quyền số đánh giá tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp có thể phản ánh thực chất thành quả lao động của cơ sở SX và khả thi trong điều kiện hiện tại.
Việc tính toán quyền số được tính lần lượt từ ngành cấp 1 dần xuống các ngành thấp hơn liền kề và kết thúc ở bước tính quyền số sản phẩm. Trong thực tế triển khai lần này, chúng ta chọn toàn bộ ngành cấp 1 và bỏ qua ngành cấp hai, vì vậy chỉ cần tính quyền số cho ngành cấp 4 và sản phẩm. Các bước cụ thể như sau:
- Bước 1 tính quyền số ngành cấp 4: từ giá trị tăng thêm của từng ngành được chọn, sau đó suy rộng thêm phần của những ngành không được chọn để có quyền số ngành cấp 4
- Bước 2 tính quyền số sản phẩm: từ giá trị tăng thêm của các sản phẩm được chọn, suy rộng thêm phần của những sản phẩm không được chọn để có quyền số sản phẩm
2. Phương pháp chọn mẫu
Việc chọn mẫu được chọn thứ tự từ ngành phổ quát nhất, sau đó chọn dần từng bậc các ngành chi tiết hơn, đến tận sản phẩm và cuối cùng là các cơ sở sản xuất sản phẩm nằm trong mẫu. Tại mỗi cấp chọn, phải chọn mẫu sao cho tổng thể mẫu đủ mức độ đại diện; Theo lý thuyết thống kê, nó phải đạt tỷ trọng 75% (theo đơn vị tính) trở lên.
3. Các bước tính toán chỉ số
Các bước tính chỉ số có qui trình ngược lại với tính quyền số và chọn mẫu, nghĩa là tính lần lượt từ sản phẩm lên đến ngành chi tiết rồi đến ngành cấp trên liền kề và kết thúc ở chỉ số toàn ngành công nghiệp.
- Bước 1: tính chỉ số ngành cấp 4:
- Bước 2: tính chỉ số ngành cấp 1:
- Bước 3 tính chỉ số toàn ngành CN tỉnh:
Như vậy điểm khác nhau căn bản của phương pháp đang sử dụng và phương pháp đang tiếp cận là phương pháp hiện hành dựa vào chỉ tiêu giá trị để tính tốc độ tăng trưởng nền công nghiệp trong khi phương pháp IIP dựa trực tiếp vào khối lượng và chỉ số khối lượng của từng SP để tính chỉ số của ngành cấp 4, ngành cấp 1 và toàn ngành CN.
III. QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU TRIỂN KHAI PHƯƠNG PHÁP MỚI
Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới (cả nước phát triển và đang phát triển) đều dùng phương pháp IIP để phản ánh xu hướng tăng trưởng SX CN hàng tháng. Bắt đầu từ năm 2004, Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản (METI) giúp Việt Nam nghiên cứu áp dụng phương pháp IIP. Lộ trình nghiên cứu, triển khai áp dụng được tiến hành một cách thận trọng, khoa học. Cụ thể như sau :
- Trong năm 2004, điều tra thử nghiệm lần thứ nhất tại 3 tỉnh, TP nhằm kiểm tra xem nội dung phiếu điều tra, tài liệu hướng dẫn, phương pháp thu thập số liệu, quá trình tổng hợp có phù hợp với điều kiện cụ thể VN không; Xác nhận tỷ lệ thu thập và độ tin cậy số liệu; Lắng nghe ý kiến phản hồi từ doanh nghiệp;
- Trong năm 2005, điều tra thử lần thứ hai tại 9 tỉnh, TP nhằm xác nhận nội dung và sự hợp lý của của tài liệu điều tra; Thực hiện điều tra theo cơ sở và xác nhận tính khả thi; Xem xét khả năng so sánh quốc tế và phân ngành phù hợp với điều kiện VN; Xây dựng nội dung và phương pháp công bố số liệu;
- Trong năm 2006, tiến hành điều tra tiền trạm tại 25 tỉnh, TP. Việc mở rộng qui mô điều tra nhằm điều chỉnh đối tượng, phương pháp, nội dung điều tra sao cho thật phù hợp với điều kiện VN. Xây dựng cơ sở cho việc hoàn thiện phần phần mềm xử lý số liệu. Tổng kết rút kinh nghiệm và đề ra các hướng xử lý các vấ đề nảy sinh khi áp dụng chính thức.
- Bắt đầu từ tháng 1/2007, toàn quốc đồng loạt áp dụng phương pháp IIP song song với phương pháp giá trị sản xuất theo giá CĐ. Hiện nay, cơ sở dữ liệu của tỉnh về IIP đã tương đối hoàn chỉnh, cho kết quả ổn định, tốc độ tăng trưởng SX CN tương đối gần với tốc độ tăng trưởng GDP.
IV. NỘI DUNG PHƯƠNG ÁN ĐIỀU TRA IIP ĐANG ÁP DỤNG TẠI TỈNH
1. Phạm vi điều tra: là các cơ sở sản xuất sản phẩm công nghiệp trên địa bàn tỉnh
2. Đơn vị điều tra: là các cơ sở sản xuất có hoạt động sản xuất công nghiệp, không kể hạch toán độc lập hay phụ thuộc
3. Chọn mẫu:
Mẫu chọn đại diện cho từng tỉnh, TP với số liệu gốc 2005. Toàn bộ ngành cấp 1 đều tham gia tính IIP, vì vậy không đặt vấn đề chọn và tính quyền số ngành cấp 1
- Bước 1: chọn ngành cấp 4 đại diện cấp 1, gồm các ngành cấp 4 có giá trị tăng thêm cộng dồn chiếm từ 75 % giá trị tăng thêm của ngành cấp 1 trở lên
- Bước 2: Chọn sản phẩm đại diện ngành cấp 4, gồm các sản phẩm chủ yếu, có giá trị tăng thêm cộng dồn chiếm từ 75 % giá trị tăng thêm ngành cấp 4 trở lên
- Bước 3: chọn cơ sở đại diện sản xuất các sản phẩm chủ yếu, gồm các cơ sở có khối lượng sản phẩm mà giá trị tăng thêm chiếm 75% so với giá trị tăng thêm sản phẩm trở lên.
4. Dàn mẫu của tỉnh:
- Toàn bộ ngành cấp 1: CN khai thác, CN chế biến, SX và phân phối điện, nước.
- 37 ngành cấp 4 ( chia ra: doanh nghiệp 11 ngành, cá thể 26 ngành).
- 73 sản phẩm công nghiệp (chia ra: doanh nghiệp 30 sản phẩm, cá thể 43 sản phẩm).
- 340 cơ sở sản xuất công nghiệp (chia ra: doanh nghiệp 48, cá thể 292).
5. Chỉ tiêu điều tra
- Số lượng SP sản xuất tháng báo cáo và dự tính tháng tiếp theo
- Số lượng SP tiêu thụ tháng báo cáo
- Số lượng SP tồn kho tháng báo cáo
- Trị giá hàng tiêu thụ tháng báo cáo
- Doanh thu thuần tháng báo cáo
6. Vấn đề bổ sung mẫu
Về mặt lý thuyết, nên hạn chế tối đa việc bổ sung mẫu khi mà ngành và sản phẩm mới không có trong kỳ gốc. Tuy nhiên đây là khuyến cáo cho các nền kinh tế ổn định và đã phát triển mạnh và rất chuyên ngành. Thực tế nền kinh tế nước ta mới trong giai đoạn phát triển, xuất phát điểm tương đối thấp, nên đang mở cả chiều rộng và chiều sâu. Thêm một dây chuyền SX có công nghệ hiện đại hoặc xây mới một nhà máy, xí nghiệp có thể làm thay đổi hẳn cơ cấu và tốc độ tăng trưởng ngành CN trong tỉnh. Vì vậy việc bổ sung mẫu là cần thiết và quan trọng.
6.1 Nội dung bổ sung mẫu: Cục TK tỉnh theo dõi, bám sát diễn biến SX CN trong tỉnh, kịp thời nắm bắt và cung cấp đầy đủ thông tin về cơ sở SX, SP mới, ngành mới cho trung ương. Những cơ sở mới, SP mới cần đạt một tỷ lệ tương đối lớn, chiếm tỷ trọng khoảng 15% GTTT SP cùng loại hoặc 5% ngành cấp 4 nó trực thuộc mới nên bổ sung, vì phải ở mức SX như vậy, nó mới ảnh hưởng tới cơ cấu và tốc độ tăng trưởng ngành CN.
6.2 Phương pháp bổ sung:
- Với những cơ sở mới đưa vào SX, nhưng sản phẩm đã xuất hiện tại tỉnh và có trong dàn mẫu, việc bổ sung rất đơn giản, cấp trung ương sẽ cập nhật danh mục cơ sở với các thông tin định danh do tỉnh cung cấp, sau đó tỉnh tiếp tục theo dõi, xử lý số liệu và tổng hợp kết quả bao gồm cơ sở mới đó.
- Với những cơ sở mới có sản phẩm mới hoặc ngành mới chưa tham gia vào dàn mẫu, việc bổ sung cần thận trọng, cân nhắc hơn. Một phần mền về bổ sung mẫu đã được hoàn thiện cho phép đổi những SP mới về SP đã có trong dàn mẫu với hệ số tính đổi căn cứ vào giá trị tăng thêm của hai SP này. Sau đó việc cập nhật và tính toán sẽ giống như bước trên.
V. MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VỀ CHỈ SỐ IIP VÀ KHẢ NĂNG KHAI THÁC THÔNG TIN TỪ CHỈ SỐ IIP
- Số liệu tổng hợp phong phú, chi tiết và đa dạng: hàng tháng, IIP được tính toán đến từng ngành cấp 4, từng sản phẩm hoặc mặt hàng
- Toàn bộ những ngành chủ đạo, sản phẩm chủ yếu, doanh nghiệp lớn, vừa và một phần doanh nghiệp nhỏ của tỉnh đều được điều tra, tổng hợp vào chỉ số IIP. Những sản phẩm không có trong bảng giá cố định cũng được tính đến.
- Cơ sở dữ liệu đầy đủ, hoàn chỉnh, dễ khai thác. Toàn bộ số liệu về sản xuất, tiêu thụ, tồn kho của từng cơ sở sản xuất sản phẩm được cập nhật hàng tháng, đáp ứng kịp thời nhu cầu số liệu của mọi đối tượng dùng tin một cách nhanh chóng, thuận tiện.
- Dãy số liệu ổn định, tương đối sát với tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp, độ tin cậy cao, có thể sử dụng làm căn cứ tính GDP
- Phản ánh chính xác xu hướng phát triển ngành công nghiệp trong phạm vi tỉnh, TP. Không bị trùng với số liệu tỉnh khác vì đã loại trừ sản lượng của doanh nghiệp có trụ sở đặt tại tỉnh nhà, và không bị bỏ sót vì tính đủ cho những cơ sở SX có trụ sở chính đặt tại tỉnh khác.
- Chương trình phần mềm và phương pháp tính đảm bảo tính khách quan của số liệu thống kê
- Kết quả tổng hợp của tỉnh và trung ương thống nhất một nguồn số liệu gốc từ cơ sở, do vậy khắc phục sự khác biệt về số liệu giữa trung ương và địa phương
VI. MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ TỒN TẠI
- Chỉ số IIP áp dụng công nghệ thông tin tiên tiến, cần có thời gian để cán bộ cập nhật kiến thức sử dụng, khai thác số liệu. Phần mền áp dụng đòi hỏi máy tính có cấu hình cao, đặt ra vần đề cần nâng cấp trang thiết bị, gây khó khăn cho tỉnh khi mà điều kiện kinh phí còn hạn chế.
- Người dùng tin vốn có thói quen sử dụng số liệu phản ánh xu hướng tăng trưởng bằng cả số tuyệt đối và tương đối (%), mặc dù là thông tin nhanh hàng tháng, nhưng chỉ số IIP chỉ cung cấp số liệu theo số tương đối
- Chỉ số IIP được xây dựng cho cấp tỉnh và toàn quốc, không xây dựng đến cấp huyện
- Thông tin về thành phần cá thể chỉ thể hiện ở chỉ số IIP toàn ngành công nghiệp, không thể hiện ở chỉ số ngành cấp 4.
- Chỉ số IIP không phản ánh đuợc tình hình cải tiến chất lượng sản phẩm.
VII. CÔNG BỐ SỐ LIỆU
1. Nội dung công bố hàng tháng
- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): được tính bằng khối lượng SX các SP chủ yếu kỳ báo cáo qua điều tra mẫu so với khối lượng sản xuất kỳ gốc. Chỉ số IIP bao gồm: tháng báo cáo so với tháng bình quân năm gốc và cộng dồn từ đầu năm đến tháng báo cáo so với cùng kỳ năm trước và được phân tổ đến ngành cấp 4
- Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá cố định 1994: Giá trị tuyệt đối của tháng chính thức, tháng ước tính, cộng dồn đến tháng ước tính và so sánh tốc độ phát triển so với cùng kỳ năm trước.
- Khối lượng sản phẩm và chỉ số của các sản phẩm chủ yếu: khối lượng SX của tháng chính thức, tháng ước tính, cộng dồn đến tháng ước tính và so sánh tốc độ phát triển so với cùng kỳ năm trước.
2. Lộ trình công bố
- Tại kỳ họp báo cuối năm 2008, Tổng cục Thống kê công bố chỉ số IIP như là kết quả của dự án do Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản (METI) trợ giúp kỹ thuật.
- Từ tháng 1/2009 đến tháng 12/2010: hàng tháng ngành Thống kê công bố song song hai chỉ tiêu phản ánh xu hướng và tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng tháng là giá trị sản xuất theo giá cố định 1994 và chỉ số IIP. Mục tiêu của việc công bố song song là giúp cho người dùng tin tham khảo và dần làm quen và tiếp cận chỉ số mới, hình dung được tốc độ phát triển, cơ cấu ngành và mối tương quan giữa ngành công nghiệp với các ngành khác như thế nào khi sử dụng chỉ số IIP; Đồng thời vẫn sử dụng chỉ tiêu Giá trị sản xuất theo giá cố định 1994 để đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch đã đề ra từ trước của các cấp quản lý, lãnh đạo. Như vậy việc xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch sẽ sử dụng chỉ số IIP trong kế hoạch hàng năm, giai đoạn 2010 – 2015 và các giai đoạn tiếp theo.
- Từ tháng 1/2011 trở đi, chỉ công bố chỉ số IIP và đây là chỉ tiêu sử dụng cho việc đánh giá, kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch của tỉnh về tốc độ tăng trưởng SX CN
- Chỉ tiêu khối lượng sản phẩm và chỉ số tăng trưởng sản phẩm vẫn công bố đều đặn hàng tháng.
- Từ năm 2011, hàng quí công bố chỉ số về tiêu thụ và tồn kho sản phẩm ngành CN;
3. Hình thức công bố
Các chỉ tiêu thống kê công nghiệp hàng tháng của tỉnh được công bố bằng văn bản báo cáo định kỳ thường xuyên của Cục Thống kê tỉnh
Theo TCTK